Khám phá nguồn gốc và ý nghĩa tên gọi 63 tỉnh thành Việt Nam

Khám phá nguồn gốc và ý nghĩa tên gọi 63 tỉnh thành Việt Nam

Khám phá nguồn gốc tên gọi của 63 tỉnh thành Việt Nam cùng Hải Âu Travel, hiểu thêm về lịch sử và văn hóa của dải đất hình chữ S, nơi người Việt-Mường sinh sống từ hàng nghìn năm trước.

1. HÀ NỘI

Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, vua Gia Long đổi phủ Phụng Thiên (kinh thành cũ Thăng Long) thành phủ Hoài Đức, thuộc Tổng Trấn Bắc Thành. Năm 1831, vua Minh Mạng bãi bỏ Bắc Thành và 11 Trấn, thay bằng 29 Tỉnh. Tỉnh Hà Nội ra đời, bao gồm thành Thăng Long, phủ Hoài Đức (của Tây Sơn) cùng 3 phủ Ứng Hòa, Thường Tín, Lý Nhân thuộc Trấn Sơn Nam. Tên gọi Hà Nội bắt nguồn từ vị trí địa lý: “Hà” (sông) “Nội” (bên trong), nghĩa là thành nằm bên trong sông, bởi tỉnh Hà Nội được bao bọc bởi sông Hồng và sông Đáy (Theo tài liệu “1.000 năm Thăng Long-Hà Nội” của Tô Hoài).

Cửa Bắc, hay Chính Bắc Môn, là một trong năm cổng thành Hà Nội thời Nguyễn. Cửa Bắc được Pháp giữ lại sau khi phá thành, bởi hai vết đại bác do pháo thuyền Pháp bắn từ sông Hồng năm 1882. Ngày nay, trên cổng thành là nơi thờ hai vị tổng đốc Hà Nội: Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu.

Cửa Bắc, hay Chính Bắc Môn, là một trong năm cổng thành Hà Nội thời Nguyễn. Cửa Bắc được Pháp giữ lại sau khi phá thành, bởi hai vết đại bác do pháo thuyền Pháp bắn từ sông Hồng năm 1882. Ngày nay, trên cổng thành là nơi thờ hai vị tổng đốc Hà Nội: Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu.

2. BẮC GIANG

Bắc Giang, vùng đất lịch sử, từng thuộc bộ Võ Ninh thời Hùng Vương, sau đổi tên qua các thời kỳ: łộ Bắc Giang (Lý – Trần), phủ Bắc Hà (Lê), phủ Thiên Phúc (1822), phủ Đa Phúc (Tự Đức). Nguồn gốc tên gọi “Bắc Giang” chưa được xác thực, nhưng có ý nghĩa là phía bắc con sông, thể hiện vị trí địa lý độc đáo của vùng đất này.

Phủ Lạng Thương, 1910. Ảnh: kienthuc.net.vn

Phủ Lạng Thương, 1910. Ảnh: kienthuc.net.vn

3. BẮC KẠN

Bắc Kạn, một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, mang trong tên gọi ý nghĩa lịch sử. Chữ “Kạn” trong “Bắc Kạn” với bộ “tài” gẩy bên chữ “Can”, âm Hán Việt đọc là “cản”, tượng trưng cho ý nghĩa ngăn giữ, bảo vệ, chống cự (phía bắc). Điều này được thể hiện rõ trong bài văn bia Tam hải hồ sơn chí bằng tiếng Hán, do Phan Đình Hoè viết và Vi Văn Thượng khắc dựng năm 1925 tại Bó Lù, bờ hồ Ba Bể.

Ảnh chụp trang sách chữ Nôm từ tác phẩm “Chải tinh kỷ hoa” của người Tày, dân tộc chiếm hơn 50% dân số Bắc Kạn.

4. BẮC NINH

Năm 1822, từ một phần xứ Kinh Bắc – vùng đất thuộc bộ Vũ Ninh thời Văn Lang (gồm phần lớn tỉnh Bắc Ninh hiện nay) – tên gọi Bắc Ninh được đặt, có thể được đặt ra từ sự kết hợp của “Kinh Bắc” và “Vũ Ninh”.

Đường Ngô Gia Tự, Bắc Ninh - trục đường chính của thị xã thập niên 1920 (ảnh tư liệu).

Đường Ngô Gia Tự, Bắc Ninh – trục đường chính của thị xã thập niên 1920 (ảnh tư liệu).

5. CAO BẰNG

Cao Bằng, vùng đất cổ xưa thuộc bộ Vũ Định thời Hùng Vương, sau đó trở thành đất Thái Nguyên dưới triều Lý. Năm 1467, nơi đây được gọi là phủ Bắc Bình, rồi đổi thành phủ Cao Bình. Năm 1676, nhà Lê thu phục Cao Bình từ tay nhà Mạc, đặt lại thành trấn Cao Bình. Đến thời Tây Sơn, tên gọi Cao Bình dần chuyển thành Cao Bằng, một cái tên gắn liền với vùng đất này cho đến ngày nay.

Cao Bằng (1935). Ảnh: tư liệu.

Cao Bằng (1935). Ảnh: tư liệu.

6. ĐIỆN BIÊN

Điện Biên, vùng đất cổ xưa với tên gọi Mường Thanh, theo tiếng Thái là Xứ trời, mang ý nghĩa thiêng liêng và là nơi giao thoa giữa đất trời. Vùng đất biên viễn này được vua Thiệu Trị đặt tên là Phủ Điện Biên vào năm 1841. “Điện” trong tên gọi này ám chỉ một vùng núi to nhưng linh thiêng, là nơi thờ cúng, “Biên” là biên viễn, thể hiện vị trí địa lý của vùng đất.<img alt="Cầu Điện Biên. Ảnh: tư liệu” width=”800″ height=”533″ class=”wp-image size-full” src=”https://haiautravel.com/wp-content/uploads/2024/10/6-nguon-goc-63-tinh-thanh-viet-nam-ten-goi-va-y-nghia.jpg” />Cầu Điện Biên. Ảnh: tư liệu

7. HÀ GIANG

Hà Giang, tên gọi bắt nguồn từ cách giải thích về nghĩa chữ: dòng sông nhỏ chảy vào dòng lớn, cụ thể là Sông Miện đổ vào Sông Lô.

Cầu Yên Biên I, bắc qua sông Lô, là minh chứng lịch sử cho sự hình thành và phát triển của Hà Giang từ năm 1891. Hai chiếc mố cầu được xây dựng khoảng đầu thế kỷ 20, nay chỉ còn một chiếc mố bên bờ Tây. (Ảnh: tư liệu)

Cầu Yên Biên I, bắc qua sông Lô, là minh chứng lịch sử cho sự hình thành và phát triển của Hà Giang từ năm 1891. Hai chiếc mố cầu được xây dựng khoảng đầu thế kỷ 20, nay chỉ còn một chiếc mố bên bờ Tây. (Ảnh: tư liệu)

8. HẢI DƯƠNG

Hải Dương, mang tên chính thức từ năm 1469, là vùng đất duyên hải phía đông kinh thành Thăng Long. Tên gọi “Hải Dương” ẩn chứa ý nghĩa sâu sắc: “Hải” là biển, “Dương” là ánh sáng mặt trời, tượng trưng cho ánh nắng rạng rỡ từ biển Đông chiếu về. Hải Dương, được Nguyễn Trãi trong Dư địa chí đánh giá là trấn thứ nhất trong bốn kinh trấn, giữ vai trò phên giậu phía đông của kinh thành Thăng Long, bảo vệ đất nước khỏi giặc ngoại xâm.

Thành Hải Dương (1885), một trong 4 thành của Thăng Long tứ trấn. (Ảnh: nguoikesu.com)

Thành Hải Dương (1885), một trong 4 thành của Thăng Long tứ trấn. (Ảnh: nguoikesu.com)

9. HẢI PHÒNG

Hải Phòng, thành phố Hoa phượng đỏ, ra đời vào năm 1888. Tên gọi Hải Phòng có thể bắt nguồn từ “Hải tần phòng thủ” của nữ tướng Lê Chân đầu thế kỷ 1, hoặc từ “Hải Dương thương chính quan phòng” thời Tự Đức. Ngoài ra, nó cũng có thể xuất phát từ “ti sở nha Hải phòng sứ” hay “đồn Hải Phòng” do Bùi Viện lập năm 1871.<img alt="Chợ sắt thời Pháp thuộc” width=”800″ height=”519″ class=”wp-image size-full” src=”https://haiautravel.com/wp-content/uploads/2024/10/9-nguon-goc-63-tinh-thanh-viet-nam-ten-goi-va-y-nghia.jpg” />Chợ sắt thời Pháp thuộc

10. HÀ NAM

Hà Nam được thành lập năm 1890, tách từ Nam Định. Tỉnh Thái Bình được tách từ Nam Định và một phần phía bắc của tỉnh này, kết hợp với một phần phía nam Hà Nội tạo thành tỉnh Hà Nam. Tên gọi Hà Nam được lấy từ hai tỉnh gốc: Hà Nội và Nam Định.

Bản đồ hành chính tỉnh Hà Nam (1907) - Niên giám Đông Dương.

Bản đồ hành chính tỉnh Hà Nam (1907) – Niên giám Đông Dương.

11. HOÀ BÌNH

Thành lập năm 1886 với tên gọi tỉnh Mường, Hòa Bình ban đầu đặt tỉnh lỵ tại thị trấn Chợ Bờ. Sau đó, tỉnh lỵ chuyển về xã Phương Lâm (1886), đổi tên thành tỉnh Phương Lâm (1888). Năm 1896, tỉnh lỵ được dời về xã Hòa Bình, bên bờ trái sông Đà, đối diện Phương Lâm. Từ đó, tỉnh được gọi là Hòa Bình và tồn tại cho đến nay, trải qua nhiều lần tách nhập.

Bản đồ tỉnh Chợ Bờ (Hoà Bình) năm 1891 (Ảnh: tư liệu)

Bản đồ tỉnh Chợ Bờ (Hoà Bình) năm 1891 (Ảnh: tư liệu)

12. HƯNG YÊN

Được thành lập năm 1831, tỉnh Hưng Yên gồm các huyện Đông Yên, Kim Động, Thiên Thi, Tiên Lữ, Phù Dung (trấn Sơn Nam) và Thần Khê, Hưng Nhân, Duyên Hà (trấn Nam Định). Nổi tiếng từ thời Trịnh – Nguyễn, Hưng Yên được biết đến với Phố Hiến – “Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến”.

Chùa cổ ở Hưng Yên (Bắc Việt Nam), ảnh: TS Nguyễn Khắc Hào/ Báo Hưng Yên.

Chùa cổ ở Hưng Yên (Bắc Việt Nam), ảnh: TS Nguyễn Khắc Hào/ Báo Hưng Yên.

13. LAI CHÂU

Lai Châu, cái tên mang dấu ấn lịch sử, xuất phát từ chữ “châu Lay” do các thủ lĩnh Thái đặt cho vùng đất này vào đầu thế kỷ X. Năm 1435, Dư địa chí của Nguyễn Trãi ghi là “châu Lai”, một phiên âm của “châu Lay”.

Sông Đà trước giải phóng Điện Biên (Ảnh: tư liệu)

Sông Đà trước giải phóng Điện Biên (Ảnh: tư liệu)

14. LẠNG SƠN

 

Lạng Sơn là một trong 13 tỉnh được vua Minh Mạng thành lập đầu tiên ở Bắc Kỳ (năm 1831), tên gọi xuất phát từ danh xưng “xứ Lạng”.

Cầu Kỳ Cùng, 1950 (Ảnh: manhhais photostrea, FB Dung Dang)

Cầu Kỳ Cùng, 1950 (Ảnh: manhhais photostrea, FB Dung Dang)

15. LÀO CAI

Tên Lào Cai bắt nguồn từ cách gọi “Lão Nhai” của người địa phương, nghĩa là Phố Cũ hoặc Chợ Cũ. Khu phố Bảo Thắng, do Lưu Vĩnh Phúc xây dựng ở vùng thị xã Lào Cai ngày nay, được người địa phương gọi là “Lảo Kay”. Sau đó, người Pháp phiên âm cách gọi này thành “Lao Kai” hoặc “Lao Kay” trong tiếng Latin.

Công ty xe ô tô Lào Cai - Sa Pa (1920-1929), nay là Trung tâm Thông tin và Xúc tiến Du lịch tỉnh Lào Cai (đối diện Sân Quần và Nhà thờ Sa Pa). Ảnh: Bảo tàng tỉnh Lào Cai.

Công ty xe ô tô Lào Cai – Sa Pa (1920-1929), nay là Trung tâm Thông tin và Xúc tiến Du lịch tỉnh Lào Cai (đối diện Sân Quần và Nhà thờ Sa Pa). Ảnh: Bảo tàng tỉnh Lào Cai.

16. NAM ĐỊNH

Tên gọi Nam Định xuất phát từ năm 1822, khi triều Nguyễn đổi tên trấn Sơn Nam Hạ thành trấn Nam Định. “Nam” mang ý nghĩa phía Nam, còn “Định” có nghĩa là bình định, là chữ nhà Nguyễn thường đặt cho nhiều vùng đất. Năm 1832, trấn Nam Định được nâng cấp thành tỉnh Nam Định, bao gồm cả Thái Bình và một phần đất Hà Nam hiện nay. Năm 1890, Thái Bình tách ra thành tỉnh riêng, đồng thời một phần phía bắc Nam Định và một phần phía nam Hà Nội hợp nhất thành tỉnh Hà Nam.

Cột cờ Thành Nam: Biểu tượng Nam Định.

Cột cờ Thành Nam: Biểu tượng Nam Định.

17. NINH BÌNH

Ninh Bình, với ý nghĩa phẳng lặng, yên ổn, được đặt tên là đạo Ninh Bình năm 1822, sau đó đổi thành tỉnh Ninh Bình năm 1831.

Bản đồ Ninh Bình (1891)

Bản đồ Ninh Bình (1891)

18. PHÚ THỌ

 

Phú Thọ là tên gọi xuất phát từ tên làng Phú Thọ thuộc tổng Yên Phú, huyện Sơn Vi, tỉnh Hưng Hóa mà lập nên thị xã Phú Thọ năm 1903. Sau đó Pháp chuyển tỉnh lỵ của tỉnh Hưng Hóa lên thị xã Phú Thọ và đổi tên tỉnh Hưng Hóa thành tỉnh Phú Thọ.

Đồn lính Pháp tại ngã ba sông Lô - sông Chảy, thị trấn Phủ Đoan (nay là huyện Đoan Hùng, Phú Thọ). Ảnh chụp khoảng 1902-1905.

Đồn lính Pháp tại ngã ba sông Lô – sông Chảy, thị trấn Phủ Đoan (nay là huyện Đoan Hùng, Phú Thọ). Ảnh chụp khoảng 1902-1905.

19. QUẢNG NINH

Quảng Ninh là vùng đất lịch sử lâu đời. Ở khu vực Vịnh Hạ Long đã khảo cổ được di chỉ của người tiền sử từ 3000 – 1500 năm TCN. Khi hình thành Nhà nước đầu tiên của người Việt, thời Hùng Vương vùng đất Quảng Ninh nay là bộ Lục Hải. Một trong 15 bộ của nhà nước Văn Lang. Thời Phong kiến khu vực tỉnh Quảng Ninh hiện nay có tên lần lượt là: Lục Châu, tô Đông Hải, tô Hải Đông, trấn An Bang, tỉnh Quảng Yên. Sau này Quảng Yên được tách ra thành nhiều đơn vị khác, trong đó có Hải Ninh, về sau Quảng Yên cùng với Hải Ninh và các đơn vị này nhập thành Quảng Ninh bây giờ. Như vậy Quảng Ninh hiện nay gần như là Quảng Yên cũ.

Quảng Ninh, 1915.

Quảng Ninh, 1915.

20. SƠN LA

Tên gọi Sơn La bắt nguồn từ Nậm La, một nhánh của sông Đà. Trước năm 1479, vùng đất này thuộc vương quốc Bồn Man, đến năm 1749 chính thức được sáp nhập vào Đại Việt. Năm 1886, châu Sơn La được thành lập thuộc phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hoá. Năm 1895, tỉnh Vạn Bú ra đời, tỉnh lỵ đặt tại Vạn Bú (Tạ Bú). Ngày 23/8/1904, tỉnh Vạn Bú đổi tên thành tỉnh Sơn La.

Sơn La năm 1980.

Sơn La năm 1980.

21. THÁI BÌNH

Vùng đất Thái Bình, ngày nay là tỉnh Thái Bình, được gọi là phủ Thái Bình từ năm 1005 khi đất Đằng Châu đổi tên. Năm 1890, Toàn quyền Đông Dương tách phủ Kiến xương từ tỉnh Nam Định, huyện Thần Khê từ tỉnh Hưng Yên và sáp nhập vào phủ Thái Bình để thành lập tỉnh Thái Bình, phủ Thái Bình sau đó đổi tên thành Thái Ninh.

Chợ Thái Bình, 1945.

Chợ Thái Bình, 1945.

22. VÌNH PHÚC

Được thành lập vào ngày 12/2/1950 từ sự kết hợp của hai tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên, Vĩnh Phúc trải qua nhiều lần tách nhập. Hiện nay, tỉnh bao gồm tỉnh Vĩnh Yên và thị xã Phúc Yên trước đây. Trong thời kỳ Pháp tạm chiếm đóng miền Bắc (1946-1954), tỉnh này được gọi là Vĩnh Phúc Yên.<img alt="Thị xã Tam Đảo xưa” width=”800″ height=”491″ class=”wp-image size-full” src=”https://haiautravel.com/wp-content/uploads/2024/10/22-nguon-goc-63-tinh-thanh-viet-nam-ten-goi-va-y-nghia.jpg” />Thị xã Tam Đảo xưa

23. YÊN BÁI

Tỉnh Yên Bái được đặt tên theo làng Yên Bái, nơi tỉnh lỵ được thành lập vào ngày 11/4/1900 bởi thực dân Pháp. Ban đầu, tỉnh bao gồm phủ Trấn Yên, hai châu Văn Chấn, Văn Bàn. Từ năm 1910-1920, châu Lục Yên (Tuyên Quang) và châu Than Uyên (Lai Châu) được sáp nhập vào Yên Bái. Sau năm 1945, tỉnh Yên Bái trải qua nhiều lần tách nhập, điều chỉnh địa giới hành chính.

Yên Bái, 1906.

Yên Bái, 1906.

24. TUYÊN QUANG

Tên Tuyên Quang bắt nguồn từ sông Tuyên Quang, nay là sông Lô. Theo An Nam chí lược của Lê Tắc (1335), nơi đây có ngã ba sông: sông Quy Hóa (từ Vân Nam), sông Tuyên Quang (từ đạo Đặc Ma) và sông Đà (từ Chàng Long). Chính vì thế, địa danh này được đặt tên như vậy. Tuyên Quang trở thành tỉnh dưới triều vua Minh Mạng.

Tuyên Quang xưa (1920s), nay là thành phố Tuyên Quang. (Ảnh: kienthuc.net.vn)

Tuyên Quang xưa (1920s), nay là thành phố Tuyên Quang. (Ảnh: kienthuc.net.vn)

25. THÁI NGUYÊN

Thái Nguyên, một cái tên mang gốc Hán Việt, với “Thái” nghĩa là rộng lớn và “Nguyên” chỉ cánh đồng bằng phẳng, đã được thành lập vào năm 1831. Năm 1890, chính quyền Pháp chia tỉnh thành Thái Nguyên và Bắc Kạn. Năm 1965, hai tỉnh được sáp nhập thành Bắc Thái, và đến năm 1996, tỉnh này lại được chia tách, tái lập tỉnh Bắc Kạn và tỉnh Thái Nguyên. Như vậy, Thái Nguyên ngày nay bao gồm gần như toàn bộ diện tích của tỉnh Bắc Thái cũ.

Thái Nguyên những năm 1985-1990.

Thái Nguyên những năm 1985-1990.

26. ĐÀ NẴNG

Tên gọi Đà Nẵng bắt nguồn từ từ “Đaknan” trong tiếng Chăm cổ, nghĩa là vùng sông nước rộng lớn ở cửa sông Hàn. “Đak” có nghĩa là nước, “nan” hay “nưn” có nghĩa là rộng. Một số nhà nghiên cứu cho rằng Đà Nẵng có thể xuất phát từ nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer, với “Đakdơng” – “Đà dơng” có nghĩa là sông nguồn.<img alt="Chợ Cồn những năm 1985” width=”800″ height=”560″ class=”wp-image size-full” src=”https://haiautravel.com/wp-content/uploads/2024/10/26-nguon-goc-63-tinh-thanh-viet-nam-ten-goi-va-y-nghia.jpg” />Chợ Cồn những năm 1985

27. QUẢNG NAM

Tên gọi Quảng Nam phản ánh mong muốn mở rộng về phía nam của người dân vùng đất này. Điều này cũng thể hiện rõ nét trong nhiều địa danh miền Trung mang yếu tố “quảng”, như Quảng Ngãi, Quảng Bình… Do đặc thù là dải đất hẹp, người dân miền Trung đã đặt tên các địa danh với mong muốn về sự rộng lớn, bao la, bởi “quảng” mang nghĩa như vậy.

Hội An xưa, nét Vĩnh Tân.

Hội An xưa, nét Vĩnh Tân.

28. THỪA THIÊN HUẾ 

Thừa Thiên Huế, ngày nay là tỉnh thuộc vùng đất từng là phủ Phú Xuân dưới thời Tây Sơn. Sau khi vua Gia Long chia nước, vùng đất này thuộc dinh Quảng Đức. Năm 1822, vua Minh Mạng đổi tên dinh Quảng Đức thành phủ Thừa Thiên. Năm 1831-1832, vua Minh Mạng lại chia cả nước thành 31 đơn vị hành chính, trong đó Thừa Thiên là phủ duy nhất. Tên gọi và địa giới hành chính của tỉnh đã trải qua nhiều biến đổi theo dòng chảy lịch sử, và cuối cùng ổn định với tên gọi Thừa Thiên Huế từ năm 1989 đến nay.

Hoàng thành Huế năm 1932, trục thần đạo xuyên suốt. (Ảnh: Aavh.org)

Hoàng thành Huế năm 1932, trục thần đạo xuyên suốt. (Ảnh: Aavh.org)

29. QUẢNG BÌNH

Vùng đất Quảng Bình được chúa Nguyễn Hoàng đặt tên năm 1558, trước đó từng được gọi là Bố Chính, Tân Bình, Lâm Bình, Tiên Bình và Tây Bình. Đời Lê Trung Hưng, nơi đây mang tên Tiên Bình. Năm 1604, vua Lê đổi tên thành tỉnh Quảng Bình, với “Quảng” mang ý nghĩa rộng lớn, bao la.<img alt="Quảng Bình Quan xưa” width=”800″ height=”438″ class=”wp-image size-full” src=”https://haiautravel.com/wp-content/uploads/2024/10/29-nguon-goc-63-tinh-thanh-viet-nam-ten-goi-va-y-nghia.jpg” />Quảng Bình Quan xưa

30. QUẢNG TRỊ

Quảng Trị ban đầu được gọi là Cựu Dinh Quảng Trị, thuộc trấn Thuận Hoá trong gần 300 năm. Năm 1802, Gia Long lên ngôi, đổi tên Cựu Dinh thành dinh Quảng Trị. Năm 1827, thành Quảng Trị đổi tên thành Trấn Quảng Trị, và cuối cùng năm 1832, Trấn Quảng Trị được đổi tên thành Tỉnh Quảng Trị như hiện nay.<img alt="Thành cổ Quảng Trị 1967” width=”800″ height=”511″ class=”wp-image size-full” src=”https://haiautravel.com/wp-content/uploads/2024/10/30-nguon-goc-63-tinh-thanh-viet-nam-ten-goi-va-y-nghia.jpg” />Thành cổ Quảng Trị 1967

31. NGHỆ AN

Nghệ An, cái tên mang lịch sử lâu đời, bắt nguồn từ năm 1030 thời nhà Lý, lúc đó gọi là Nghệ An châu trại. Trước đó, cùng với Hà Tĩnh, nó thuộc Hoan Châu thời Bắc thuộc. Đời Lê Thánh Tông, vùng đất này được gọi là xứ Nghệ, rồi trấn Nghệ An. Năm 1831, vua Minh Mệnh chia trấn Nghệ An thành hai tỉnh: Nghệ An và Hà Tĩnh, tạo nên bản đồ hành chính như ngày nay.

Hồng Sơn Nghệ An xưa kia

Hồng Sơn Nghệ An xưa kia

32. HÀ TĨNH

Năm 1853, vua Tự Đức giải thể tỉnh Hà Tĩnh, sáp nhập phủ Đức Thọ vào Nghệ An, đồng thời lập đạo Hà Tĩnh từ phủ Hà Thanh. Đến năm 1875, Hà Tĩnh được khôi phục lại địa vị tỉnh và đổi tên từ “đạo” thành “tỉnh”. Trung tâm hành chính tỉnh chuyển về xã Trung Tiết (nay là thành phố Hà Tĩnh) và được xây dựng lại.

Cổng Thành Hà Tĩnh (Ảnh: Tư liệu)

Cổng Thành Hà Tĩnh (Ảnh: Tư liệu)

33. THANH HOÁ

Thanh Hóa, tỉnh chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Trung Việt Nam, là tỉnh có ít lần sát nhập và chia tách nhất cả nước. Từ thời Nhà Đinh và Tiền Lê, nơi đây được gọi là đạo Ái Châu. Thời Nhà Lý ban đầu là trại Ái Châu, đến năm Thuận Thiên 1 (1009) đổi thành Phủ Thanh Hóa. Năm 1469, tên gọi đổi thành Thừa Tuyên Thanh Hoa, chính thức ghi nhận tên Thanh Hóa. Năm 1802, đổi thành trấn Thanh Hóa, có lẽ do tên cũ trùng với tên một phi tần. Năm 1831, đổi thành tỉnh Thanh Hóa, với ý nghĩa “Hoa: tinh hoa”. Năm 1841, tên gọi chính thức trở thành tỉnh Thanh Hóa và duy trì đến nay.

Rạp Hát Tống Duy Tân (Ảnh: BEAT 36 THANH HÓA)

Rạp Hát Tống Duy Tân (Ảnh: BEAT 36 THANH HÓA)

34. QUẢNG NGÃI

Tên gọi Quảng Ngãi ẩn chứa ý nghĩa sâu sắc về tình nghĩa. Ban đầu, vùng đất này thuộc dinh Quảng Nam, sau được đổi thành phủ Quảng Nghĩa. Năm 1807, xã Cù Mông được chọn làm nơi xây dựng tỉnh Quảng Nghĩa, và đến năm 1832, tỉnh Quảng Nghĩa chính thức được thành lập, mang tên gọi Quảng Ngãi như hiện nay.

Cây xăng ở Tịnh Khê, Quảng Ngãi (1954-1971). Ảnh: vnvetlester.

Cây xăng ở Tịnh Khê, Quảng Ngãi (1954-1971). Ảnh: vnvetlester.

35. BÌNH ĐỊNH

Năm 1799, sau khi hạ thành Quy Nhơn, vua Nguyễn Ánh đổi tên vùng đất này thành Bình Định. Hành động này thể hiện tư thế chiến thắng của nhà Nguyễn, đồng thời ám chỉ việc Nguyễn Ánh đã vào tận đất phát tích của nhà Tây Sơn và bình định được loạn đảng Tây Sơn – theo cách nói của các vua triều Nguyễn trước đó.

Quy Nhơn 1932: Ảnh tư liệu

Quy Nhơn 1932: Ảnh tư liệu

36. PHÚ YÊN

Phú Yên, trước kia là Ayaru thuộc quyền quản lý của Chăm Pa, bị Đại Việt sáp nhập vào năm 1471 sau chiến thắng của vua Lê Thánh Tông. Vùng đất từ đèo Hải Vân đến đèo Cù Mông, bao gồm phần phía bắc Phú Yên, trở thành điểm nóng tranh chấp giữa hai quốc gia. Năm 1611, Nguyễn Hoàng đánh bại Chăm Pa, sáp nhập Ayaru vào Đàng Trong và đổi tên thành Phú Yên, mang theo ước vọng về một vùng đất phồn vinh, yên bình.

Tuy Hoà - Phú Yên trước 1975 (Ảnh: tuyhoaplus.com)

Tuy Hoà – Phú Yên trước 1975 (Ảnh: tuyhoaplus.com)

37. KHÁNH HOÀ

Khánh Hòa, tỉnh được thành lập năm 1831 từ trấn Bình Hòa, trước đây là phủ Ninh Hòa, mang trong mình dấu ấn lịch sử từ xứ Kauthara thuộc vương quốc Chăm Pa. Năm 1653, Chúa Nguyễn Phúc Tần đánh chiếm vùng đất Phan Rang đến Phú Yên, mở rộng lãnh thổ cho đất Việt. Tên gọi Khánh Hòa thể hiện sự vui mừng, chúc mừng và hòa hợp. Chữ “Khánh” mang nghĩa chúc mừng, liên quan đến tâm trạng, cảm xúc. “Hòa” thể hiện sự đồng thuận, hòa hợp, thể hiện mong muốn về sự bình yên, thịnh vượng cho vùng đất này.

Cửa sông Cái thơ mộng với làng chài yên bình, xa xa là dãy núi Cô Tiên hùng vĩ.

Cửa sông Cái thơ mộng với làng chài yên bình, xa xa là dãy núi Cô Tiên hùng vĩ.

38. NINH THUẬN

Ninh Thuận, ban đầu là phủ Ninh Thuận được thành lập năm 1832 dưới thời vua Minh Mạng, tồn tại đến năm 1888. Sau đó, khu vực này được đổi tên thành tỉnh Phan Rang, song vẫn được gọi là tỉnh Ninh Thuận. Từ năm 1945, địa danh này trải qua nhiều lần tách nhập, cuối cùng được khôi phục tên gọi ban đầu là Ninh Thuận.

Tháp Chàm, Ninh Thuận (1980) - Nguyễn Bá Mậu.

Tháp Chàm, Ninh Thuận (1980) – Nguyễn Bá Mậu.

39. BÌNH THUẬN

Bình Thuận mang tên gọi từ năm 1697 khi chúa Nguyễn lập Bình Thuận Phủ, gồm hai huyện An Phước và Hòa Đa. “Bình” thể hiện sự khai phá, bình định vùng đất, “Thuận” ám chỉ sự hòa thuận giữa hai dân tộc Chămpa và Kinh, vốn chưa yên ổn lúc bấy giờ. Năm 1827, dưới triều vua Minh Mạng, Bình Thuận chính thức trở thành tỉnh.

Bản đồ Phan Thiết năm 1932 (Phanthietvn.com)

Bản đồ Phan Thiết năm 1932 (Phanthietvn.com)

40. SÀI GÒN

Thành phố Hồ Chí Minh, dù mang tên chính thức mới, vẫn được biết đến rộng rãi với cái tên Sài Gòn. Nguồn gốc của tên gọi này được cho là từ Brai Nagara, xuất phát từ hai địa danh Rai-gon thong (Sài Gòn thượng) và Rai-gon ha (Sài Gòn hạ) tồn tại ở vùng Gia Định xưa vào thế kỷ 18. Brai Nagara, hay Prey Nokor, là tên gọi gốc của khu vực này. Hơn nữa, “Sài Gòn” không mang ý nghĩa trong tiếng Việt, củng cố thêm khả năng tên gọi này là phiên âm từ tiếng dân tộc khác.

Chợ Bến Thành xưa (Ảnh: tư liệu)

Chợ Bến Thành xưa (Ảnh: tư liệu)

41. ĐỒNG NAI

Nguồn gốc tên gọi Đồng Nai vẫn chưa được xác định rõ ràng. Dù dân gian thường cho rằng tên gọi xuất phát từ cánh đồng nhiều nai, nhưng một số ý kiến lại cho rằng “Đồng” trong Đồng Nai là biến âm từ “Đờng” trong Đạ Đờng (Sông Cái) của người Mạ. Bên cạnh đó, nhiều địa danh khác cũng có tên gọi bắt nguồn từ “Đồng” (Đờng?) như Đồng Tranh, Đồng Môn, Đồng Tràm, Đồng Trường…, chứ không chỉ là cánh đồng. Vào thế kỷ 17, Đồng Nai hay vùng đất Đồng Nai ám chỉ một vùng Nam Bộ rộng lớn như hiện nay.

Ảnh Biên Hòa ngày 15/1/1932, nguồn: albindenis.free.fr/Site_escadrilleescadrille002_Indochine.htm

Ảnh Biên Hòa ngày 15/1/1932, nguồn: albindenis.free.fr/Site_escadrilleescadrille002_Indochine.htm

42. BÌNH DƯƠNG

Bình Dương, theo Địa chí Sài Gòn – Gia Định xưa, được đặt tên dựa theo một địa danh thời Trung cổ Trung Quốc, nơi vua Nghiêu khởi nghiệp. Vua Nghiêu sống giản dị, cày ruộng cùng dân, đêm đọc sách, tạo nên thời kỳ thái bình thịnh trị, không trộm cắp, trên dưới hòa thuận. Bình Dương nay là một phần của tỉnh Thủ Dầu Một xưa. Về tên gọi Thủ Dầu Một, nhiều người cho rằng có nguồn gốc từ tiếng Campuchia. Tuy nhiên, phần đông tác giả khác lại cho rằng Thủ Dầu Một là cụm từ tiếng Việt, kết hợp từ “Thủ” (giữ) và “Dầu Một” (tên đất). Theo truyền khẩu, đồn binh canh giữ tại Bình An nằm trên ngọn đồi có cây dầu lớn, được gọi là cây dầu một, từ đó tên gọi Thủ Dầu Một ra đời.

Chợ Thủ Dầu Một, xưa là trung tâm thị trấn tỉnh lỵ, nay thuộc thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

Chợ Thủ Dầu Một, xưa là trung tâm thị trấn tỉnh lỵ, nay thuộc thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

43. BÌNH PHƯỚC

Bình Phước được đặt tên vào ngày 30/1/1971, khi Trung ương Cục miền Nam sáp nhập hai tỉnh Bình Long và Phước Long thành một tỉnh trực thuộc Trung ương Cục.

Trạm xăng Shell, An Lộc, Bình Long (nay là Bình Phước), 1963. (Ảnh: Smugmug.com)

Trạm xăng Shell, An Lộc, Bình Long (nay là Bình Phước), 1963. (Ảnh: Smugmug.com)

44. BÀ RỊA VŨNG TÀU

Bà Rịa – Vũng Tàu là địa danh ghép từ hai thành phần: Bà Rịa và Vũng Tàu. Bà Rịa, phiên âm từ tên nữ thần trấn sóng Chăm Po Riyak, cũng có thể được giải thích là chuyển hóa từ nhân danh Nguyễn Thị Rịa. Bà Rịa, một người Phú Yên, năm 15 tuổi, cùng đoàn lưu dân từ Dinh Trấn Biên vào Nam, có công khai khẩn vùng rừng núi Đồng Xoài.

Vũng Tàu, thành lập năm 1895, nhưng dấu ấn lịch sử của vùng đất này đã xuất hiện từ thế kỷ 17. Sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn năm 1776 nhắc đến “xứ Vũng Tàu”, nơi có ba làng Thắng Nhất, Thắng Nhị, Thắng Tam được chúa Nguyễn Phúc Tần lập năm 1658. Vị trí ba mặt giáp biển của Vũng Tàu trở thành nơi lý tưởng cho tàu bè tránh gió trước khi vào Gia Định, góp phần tạo nên danh xưng “Vũng Tàu” cho vùng đất này.

Vũng Tàu, đầu thế kỷ XX

Vũng Tàu, đầu thế kỷ XX

45. TÂY NINH

Tây Ninh, xưa kia thuộc Thủy Chân Lạp, mang tên Romdum Ray – nghĩa là Chuồng Voi. Nơi đây hoang vu với rừng rậm, là nơi cư ngụ của muôn thú dữ như cọp, voi, beo, rắn. Tên gọi Tây Ninh lại ẩn chứa ý nghĩa về sự yên ổn về chính trị ở phía tây.

Cổng thành Săng-đá (1908), nay là Bộ Chỉ huy Quân sự Tây Ninh.

Cổng thành Săng-đá (1908), nay là Bộ Chỉ huy Quân sự Tây Ninh.

46. DAK NONG

Đắk Nông, theo tiếng M’Nông, có nghĩa là “Nước (hoặc đất) của người M’Nông”. Tỉnh nằm ở cửa ngõ phía tây nam Tây Nguyên, tiếp giáp với Đắk Lắk (phía bắc và đông bắc), Lâm Đồng (phía đông và đông nam), Bình Phước (phía nam) và Vương quốc Campuchia (phía tây).

Vòng xoay Hồ Đại La, Gia Nghĩa.

Vòng xoay Hồ Đại La, Gia Nghĩa.

47. DAK LAK

Đắk Lắk, theo tiếng M’Nông, nghĩa là hồ Lắk (dak là nước hay hồ), được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật nhân loại thế giới, là cái nôi của không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên.

Năm 1930, trường học Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk) mở khu trang trại dành cho người Ê Đê, nuôi dưỡng và đào tạo khoảng 500 người để trở thành lao động lành nghề phục vụ người Pháp ở Tây Nguyên.

Năm 1930, trường học Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk) mở khu trang trại dành cho người Ê Đê, nuôi dưỡng và đào tạo khoảng 500 người để trở thành lao động lành nghề phục vụ người Pháp ở Tây Nguyên.

48. GIA LAI

Tên gọi Gia Lai xuất phát từ “Jarai”, tên của tộc người bản địa đông nhất tỉnh. Cách gọi này phổ biến trong tiếng Eđê, Bana, Lào, Thái Lan và Campuchia, với các biến thể như “Jarai”, “Charay”, “Ya-Ray”, đều ám chỉ “vùng đất của người Jarai”. Tên gọi này có thể liên quan đến Thủy Xá và Hỏa Xá, thuộc tiểu quốc Jarai xưa.

Rạp Thanh Bình, Pleiku (1969)

Rạp Thanh Bình, Pleiku (1969)

49. KONTUM

Kon Tum, theo tiếng Ba Na, nghĩa là “làng hồ”, ám chỉ một ngôi làng gần hồ nước cạnh sông Đăk Bla, nay là làng Kon Kơ Nâm thuộc thành phố Kon Tum.

La-san Kim Phước, Kon Tum (trước 1975)

La-san Kim Phước, Kon Tum (trước 1975)

50. LÂM ĐỒNG

Lâm Đồng, nơi rừng núi xanh ngắt hòa quyện với đồng ruộng màu mỡ.

Tỉnh Lâm Đồng được thành lập vào năm 1958 từ sự hợp nhất của tỉnh Lâm Viên (còn gọi là Langbiang hay Lâm Biên) và tỉnh Đồng Nai Thượng. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã đổi tên tỉnh Đồng Nai Thượng thành Lâm Đồng để tạo thành tỉnh mới.

Hồ Xuân Hương, thập niên 1920 (Ảnh: Raymond Chagneau).

Hồ Xuân Hương, thập niên 1920 (Ảnh: Raymond Chagneau).

51. LONG AN

Long An mang ý nghĩa về một vùng đất an toàn, yên ổn, thịnh vượng và phát triển. “Long” tượng trưng cho sự đầy đủ, hưng thịnh, lớn mạnh, còn “An” thể hiện sự an toàn, bình yên.

Quốc lộ 4, Bến Lức (1967-1968). Ảnh: Dave Paine.

Quốc lộ 4, Bến Lức (1967-1968). Ảnh: Dave Paine.

52. TIỀN GIANG

Nằm bên dòng sông Tiền hiền hòa, Tiền Giang là vùng đất được khai hoang và định cư bởi người Việt từ thế kỷ XVII, phần lớn là từ vùng Ngũ Quảng. Trải qua nhiều lần thay đổi tên gọi và vùng địa lý, đến năm 1976, Tiền Giang chính thức ra đời từ sự hợp nhất của tỉnh Mỹ Tho, Gò Công và thành phố Mỹ Tho.

Ga Mỹ Tho (Tiền Giang) đầu thế kỷ 20

Ga Mỹ Tho (Tiền Giang) đầu thế kỷ 20

53. VĨNH LONG

Tên Vĩnh Long, ban đầu được gọi là Vãng Long, mang ý nghĩa sự thịnh vượng (long) bền vững, mãi mãi (vĩnh). Tuy nhiên, “vãng” (đi, đã qua) lại không phù hợp về nghĩa với “vĩnh”. Có khả năng sự thay đổi từ “vãng” thành “vĩnh” là do chuyển đổi ngữ âm để dễ phát âm hơn, tương tự như nhiều từ khác chuyển từ “inh” sang “ang”.

Phi trường Vĩnh Long xưa: Ảnh 67-68

Phi trường Vĩnh Long xưa: Ảnh 67-68

54. CẦN THƠ

Cần Thơ, mặc dù không liên quan ngữ âm với tên Khmer nguyên thủy Prek Rusey (sông tre) của vùng, lại bắt nguồn từ một con rạch mang tên một loài cá Khmer: kìntho (cá sặt rằn). Tên này sau đó biến âm thành Cần Thơ. Tỉnh Cần Thơ được thành lập vào ngày 1/1/1900 dưới thời Pháp thuộc, trải qua nhiều lần tách nhập và xê dịch về địa lý.

Cầu Cái Răng (Cần Thơ, 1930)

Cầu Cái Răng (Cần Thơ, 1930)

55. ĐỒNG THÁP

Tên gọi Đồng Tháp bắt nguồn từ Đồng Tháp Mười, được ghi chép thành văn là “đồng Tháp Mười”, ám chỉ “tháp thứ 10” hoặc “tháp 10 tầng”. Ý nghĩa này được giải thích theo nhiều giả thuyết khác nhau. Quá trình hình thành địa danh Tháp Mười có thể là: tháp Mười -> gò Tháp Mười (gọi tắt Gò Tháp) -> đồng Tháp Mười -> vùng Đồng Tháp Mười -> Tháp Mười + Đồng Tháp.

Trường nam sinh Sa Đéc, Đồng Tháp (khoảng 1920). Ảnh: Ecoles Des Garcons.

Trường nam sinh Sa Đéc, Đồng Tháp (khoảng 1920). Ảnh: Ecoles Des Garcons.

56. BẾN TRE

Theo cuốn “Monographie De La Province De Bến Tre” (1903) của Ménard, người Khmer gọi Bến Tre là “Xứ Tre” do tre mọc nhiều. Sau này, chợ buôn bán được lập nên và được gọi là “chợ Bến Tre”, rút gọn từ “bến xứ tre”, chính là nguồn gốc tên gọi của tỉnh Bến Tre ngày nay.

Chợ Trúc Giang, Bến Tre (1975)

Chợ Trúc Giang, Bến Tre (1975)

57. AN GIANG

An Giang, vùng đất Tầm Phong Long xưa kia, thuộc quyền kiểm soát của Chân Lạp, sau đó được dâng cho chúa Nguyễn. Vua Gia Long mộ dân khai hoang, đưa người dân vào định cư, biến vùng đất này trở thành một phần của Nam Kỳ lục tỉnh thời nhà Nguyễn. Tên gọi An Giang hàm ý dòng sông an lành, phù hợp với việc định cư lâu dài, khích lệ di dân khẩn hoang lập làng.

Châu Đốc xưa nhìn từ trên cao.

Châu Đốc xưa nhìn từ trên cao.

58. KIÊN GIANG

Kiên Giang, thành lập năm 1975, chủ yếu là vùng đất thuộc trấn Hà Tiên xưa, được khai phá bởi Mạc Cửu vào thế kỷ XVII. Tên gọi “Kiên Giang” có thể bắt nguồn từ sông Kiên, một con sông chảy qua Rạch Giá.

Kiên Giang xưa - Mẫn Nhi (thoixua.vn)

Kiên Giang xưa – Mẫn Nhi (thoixua.vn)

59. HẬU GIANG

Tỉnh Hậu Giang mang tên theo sông Hậu, dòng chảy lớn ở miền Tây Nam Bộ. Trước đây, từng có một tỉnh Hậu Giang tồn tại từ năm 1976 đến năm 1991, sau đó được chia thành tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng. Năm 2004, tỉnh Cần Thơ lại tách thành thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương và tỉnh Hậu Giang hiện nay.

Cổng chào tỉnh Hậu Giang tại thị trấn Cái Tắc (Ảnh: wikipedia)

Cổng chào tỉnh Hậu Giang tại thị trấn Cái Tắc (Ảnh: wikipedia)

60. BẠC LIÊU

Tên gọi Bạc Liêu có nguồn gốc từ tiếng Triều Châu “Pô Léo”, nghĩa là xóm nghèo, làm nghề đánh cá. Một ý kiến khác lại cho rằng “Pô” là bót hay đồn, “Liêu” là Lào theo tiếng Khơme, ám chỉ một đồn binh của người Lào trước khi người Hoa kiều đến. Ngoài ra, cũng có giả thuyết cho rằng Bạc Liêu bắt nguồn từ tiếng Khmer “Po Loenh”, nghĩa là cây đa cao.

Bến xe Bạc Liêu (Ảnh: Dân Trí)

Bến xe Bạc Liêu (Ảnh: Dân Trí)

61. TRÀ VINH

Trà Vinh, địa danh gốc Khmer “Tra Vang”, có thể là biến âm của “prha trapenh” – nghĩa là ao, ao Phật hay ao linh thiêng. Tên gọi này xuất phát từ truyền thuyết về việc người dân xưa đào được tượng Phật dưới ao ở vùng đất này. Thời nhà Nguyễn, Trà Vinh trở thành phủ, sau thành huyện thuộc phủ Lạc Hóa, tỉnh Vĩnh Long, được lập năm 1832.

Trà Vinh, tháng 4/1962 (Ảnh: Barry MacDonnell). Nguồn: mythuatcongnghiepachau.edu.vn

Trà Vinh, tháng 4/1962 (Ảnh: Barry MacDonnell). Nguồn: mythuatcongnghiepachau.edu.vn

62. SÓC TRĂNG

Sóc Trăng, biến âm từ tiếng Khmer Srock Khléang, nghĩa là “xứ kho chứa vàng bạc của vua”. Trước kia người Việt gọi là Sốc Kha Lăng, sau đổi thành Sốc Trăng. Tên gọi này đã từng bị biến đổi hoàn toàn khi vua Minh Mạng đổi thành Nguyệt Giang tỉnh, nghĩa là “sông trăng” (sốc thành sông – giang, trăng – nguyệt).

Đường Mậu Thân xưa (Ảnh: Dân Trí)

Đường Mậu Thân xưa (Ảnh: Dân Trí)

63. CÀ MAU

Cà Mau, xưa kia được người Khmer gọi là Tưk Kha-mau, nghĩa là “nước đen” – bởi lá tràm của rừng U Minh nhuộm đen dòng sông. Nơi đây là xứ sở đầm lầy ngập nước, hoang dã với những bụi lác mọc um tùm. Câu ca dao xưa: “Cà Mau là xứ quê mùa/ Muỗi bằng gà mái, cọp tùa bằng trâu” đã phần nào khắc họa khung cảnh độc đáo của vùng đất này.

Cầu Quay Cà Mau thập niên 40 (nay là đoạn Công ty Cấp nước).

Cầu Quay Cà Mau thập niên 40 (nay là đoạn Công ty Cấp nước).

Nguồn: Tổng hợp